TS. KTS. TÔ KIÊN VÀ BÀI GIẢNG “KHÔNG GIAN CÔNG CỘNG TRONG ĐÔ THỊ VỊ NHÂN SINH TẠI KHOA KIẾN TRÚC VÀ QUY HOẠCH - ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
By Bộ môn Kiến trúc dân dụng - 19/1/2018
Chiều
ngày 12/12/2017, trong chuyến công tác Việt Nam, TS. KTS. Tô Kiên đã trình bày
một bài giảng chủ đề “Không gian công cộng trong đô thị vị nhân sinh” cho khoảng
30 sinh viên Khoa Kiến trúc và Quy hoạch.
Bộ môn Kiến trúc Dân dụng cùng Bộ môn Quy hoạch Vùng và Đô thị đồng tổ chức sự
kiện học thuật này. Đến dự còn có 15 giảng viên của năm Bộ môn trong Khoa: Kiến
trúc Dân dụng, Quy hoạch Vùng và Đô thị, Kiến trúc Cảnh quan, Kiến trúc Công
nghệ và Lý thuyết và Lịch sử Kiến trúc.
Thông
báo hoạt động học thuật chuyên môn – Bài giảng của TS. KTS. Tô Kiên
TS.
KTS. Tô Kiên hiện đang công tác tại tập đoàn Eight Japan Engineering Consultants
(EJEC) tại Tokyo (Nhật Bản), từng theo học khóa 36 ngành Kiến trúc tại Đại học
Xây dựng, sau khi tốt nghiệp đi du học ở Đức và Nhật Bản, có nhiều năm giảng dạy
và nghiên cứu tại ĐH Xây Dựng (Việt Nam), ĐH Công nghệ Kyushu (Nhật Bản) và ĐH Công nghệ và Thiết kế (Singapore).
Không
gian công cộng và đô thị đáng sống là hai trong số những lĩnh vực nghiên cứu
chuyên sâu của TS. KTS. Tô Kiên. Trong thời gian giảng dạy tại Singapore, TS.
KTS. Tô Kiên đã tham gia nhiều dự án phục vụ cộng đồng, có một số dự án được tiến
hành tại Việt Nam. Đây là chủ đề của bài thuyết trình. Mở đầu, diễn giả tóm lược
bối cảnh các khía cạnh của khái niệm “đô thị vị nhân sinh”: mức độ đô thị hóa
nhanh với các khu ở phi chính thức là những thách thức, một xã hội năng động và
sáng tạo nhưng đã có dấu hiệu già hóa, đảm bảo tính đáng sống của thành phố dù
cho mật độ cư trú cao, bảo tồn dựa trên quyền lợi của người dân và đảm bảo tính
bền vững văn hóa, tạo cho cộng đồng ý thức tham gia tích cực vào các hoạt động
mang tính xã hội và cuối cùng là sự mềm dẻo cũng như tính bền vững của đô thị về
mặt xã hội, khi cộng đồng gắn kết và chung tay hành động vì sự thịnh vượng
chung, không có mâu thuẫn về lợi ích.
Để
có thể hiểu rõ và toàn diện khái niệm này, cũng như vận dụng thành công vào thực
tế, cần có một số yếu tố như chủ đề bền vững cần tập trung vào khía cạnh văn
hóa và xã hội, cách tiếp cận mang tính tham dự từ dưới lên trên (từ phía cộng đồng),
các phương pháp định tính, ...
Là
nơi tập trung đông người, với những không gian và hoạt động đáp ứng nhu cầu đa
dạng không chỉ của cư dân mà còn cho cả khách tham quan du lịch, không gian
công cộng đóng vai trò rất quan trọng trong đô thị và cũng có ý nghĩa to lớn
trong việc phát triển đô thị hướng tới tính bền vững về xã hội. Không gian công
cộng, về lý thuyết, mở cho tất cả các đối tượng có nhu cầu, không có phân biệt.
Đó mới là những không gian công cộng đúng nghĩa. Trong trường hợp chỉ dành cho một nhóm đối tượng nào đó,
chẳng hạn do yêu cầu của chủ đầu tư, thì không gian sẽ mang tính chất “giả công
cộng”, và không được coi là không gian công cộng đầy đủ.
Các
nội dung cốt lõi của không gian công cộng bao gồm: sự tiếp cận và tính liên kết,
sự tiện nghi và hình ảnh, tính chất sử dụng và các hoạt động, và các thuộc tính
xã hội. Mỗi yếu tố lại được chia nhỏ thành các đặc điểm cụ thể. Chẳng hạn như
thuộc tính xã hội là tập hợp của tám đặc điểm sau: tính chào đón, tính tương
tác, tính thân thiện, tính hợp tác, tính đa dạng, tính quản lý, tính khơi dậy
niềm tự hào, tính xóm giềng gần gũi và tính hợp tác.
Các
nhân tố tạo nên tính đáng sống của một đô thị, gồm sự phồn thịnh về kinh tế,
môi trường trong lành, cơ hội giáo dục chất lượng cho tất cả mọi người, sự ổn định
của xã hội, các không gian rộng mở phục vụ tốt nhu cầu của cộng đồng, điều kiện
nghỉ ngơi tiện nghi, tính tương tác và kết nối được khuyến khích, chất lượng
thiết kế cao, … và cũng được biểu hiện rõ qua các không gian công cộng của đô
thị đó.
TS.
KTS. Tô Kiên giảng bài cho sinh viên Khoa Kiến trúc và Quy hoạch
Các
ví dụ tốt về thiết kế không gian công cộng khắp thế giới, như Quảng trường Thời
đại ở New York, khu vực Nhà hátOpera Sydney, dòng suối nhân tạo Cheonggycheon ở
Seoul, bờ vịnh Marina ở Singapore, … cũng được lần lượt giới thiệu, bên cạnh những
địa điểm ở trong nước như Đường hoa Nguyễn Huệ ở Sài Gòn và Hồ Gươm – Quảng trường
Lý Thái Tổ ở Hà Nội.
Một
không gian công cộng có thể có nhiều dạng như tuyến, nút, cạnh, mảng rộng, … và
có những yếu tố tạo thành không gian như công trình, tác phẩm nghệ thuật, không
gian xanh, mặt nước và các hoạt động của con người. Những yếu tố nổi bật, chẳng
hạn như một công trình cao tầng, một tượng đài, … đóng vai trò điểm nhấn và
giúp nhận diện cũng như định hướng cho không gian đó. Thành phố Đà Nẵng với
sông Hàn là trục trung tâm, đường bờ biển, các cây cầu và một số công viên, quảng
trường và công trình xây mới trong một số năm qua được diễn giả lấy làm ví dụ
minh họa cho các yếu tố tạo nên các không gian công cộng trong đô thị.
Tiếp
cận từ dưới lên (bottom up) là một phương pháp khá phổ biến trên thế giới, được
vận dụng trong quy hoạch và thiết kế đô thị để tạo nên các không gian có chất
lượng. Phương pháp này khuyến khích người dân phát huy tiềm năng của cá nhân,
đóng góp ý tưởng cũng như nguồn lực để cùng với các nhà quy hoạch và kiến trúc
sư kiến tạo nên không gian cho chính họ sử dụng. Những ý tưởng này trong thực tế
có thể rất thú vị và độc đáo, phong phú và phù hợp do người dân là đối tượng nắm
rõ khu vực mình sinh sống hơn ai hết.
Trong
việc thiết kế các không gian công cộng trong đô thị, để tăng cường tính hấp dẫn,
bên cạnh các yếu tố cố định thì những yếu tố không cố định, tạm thời, có thể di
chuyển, sắp xếp theo nhiều cách khác nhau, … đóng vai trò khá quan trọng, khiến
không gian luôn tươi mới và đó chính là yếu tố thu hút sự chú ý của công chúng,
kéo họ đến trải nghiệm và cảm nhận không gian. Nếu được thay đổi thường xuyên
theo chủ đề hoặc mang tính ngẫu hứng, bất ngờ, hiệu quả có thể còn lớn hơn, khiến
một không gian dù đã quá quen thuộc cũng sẽ trở nên mới lạ. Các vật dụng mang
tính trang trí đường phố có thể di chuyển, tháo lắp, … là chất liệu để sáng tác
nên những không gian sinh động và hấp dẫn này. Một điểm mà diễn giả nhấn mạnh
là tính hấp dẫn của không gian không phải ở quy mô, mà là cách tổ chức không
gian ấy. Theo đó một không gian dù nhỏ song được tổ chức khéo thì vẫn có độ hấp
dẫn không thua kém những không gian lớn.
Ở
Việt Nam, trong những năm qua đã có một số hoạt động sáng tạo đáng chú ý như
trường hợp của Zone 9 được giới trẻ và cộng đồng nghệ thuật Thủ đô biết đến rộng
rãi. Các đường hoa, phố sách với các hoạt động phụ trợ như biểu diễn bên cạnh
các hoạt động chính như trưng bày cũng là những điều tưởng chừng bình thường
khá thú vị và đem lại những hiệu quả xã hội tích cực.
Nguyên
tắc 4C (Connect/Kết nối – Community/Cộng đồng – Co-creation/Cùng sáng tạo –
Continuity/Tiếp nối và Nhân rộng) đã được TS. KTS. Tô Kiên nêu bật như là cách thức thực hiện
để đảm bảo kết quả khả quan của một chương trình. Phương châm “Thiết kế CÙNG cộng
đồng” (Design WITH community) chuyển hóa thành “Thiết kế BỞI Cộng đồng” (Design
BY Community) nếu điều kiện cho phép cần được ghi nhớ và vận dụng. Ý tưởng này
được minh họa qua ví dụ cải tạo mặt đứng tuyến phố Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm,
Hà Nội mà diễn giả từng tham gia trong một chương trình do Cơ quan Hợp tác Quốc
tế Nhật Bản (JICA) tài trợ những năm 2000, hay gần đây nhất là năm 2016 – 2017 là
Làng Nghệ thuật Tam Thanh ở thành phố
Tam Kỳ tỉnh Quảng Ngãi với những bức bích họa tuyệt đẹp trên tường nhà dân và
các tác phẩm nghệ thuật sinh động, nhiều màu sắc được tạo nên từ các đồ vật cũ
hay chất liệu tái chế sẵn có qua bàn tay khéo léo đặt ở những địa điểm công cộng
khiến ngôi làng này trở thành một điểm đến mới trên bản đồ du lịch của tỉnh,
đem lại những lợi ích kinh tế và giá trị xã hội không nhỏ cho người dân, chỉ với
một ý tưởng ban đầu đơn giản. Những dự án kiểu này lại hay được kết hợp với
chương trình đào tạo của Đại học Công nghệ và Thiết kế Singapore nơi TS. KTS.
Tô Kiên từng công tác, sinh viên kiến trúc thực hiện và có sự tham gia, trao đổi,
đóng góp ý kiến và chung tay đóng góp của cộng đồng địa phương. Trong một dự án
khác ở Sài Gòn với sự tham gia của sinh viên Đại học Kiến trúc, cũng với cách
làm tương tự, một sân chơi cho trẻ em ở một khu vực còn gặp nhiều khó khăn đã
được tạo ra từ những nguyên vật liệu đơn giản, đem lại niềm vui cho các em.
Khoảng
30 phút cuối, TS. KTS. Tô Kiên chia sẻ những thuận lợi cũng như những khó khăn
gặp phải của một dự án cộng đồng qua những dự án cụ thể đã thực hiện ở
Singapore cũng như ở Việt Nam, và một số bí quyết tháo gỡ những khó khăn đó.
Phần trao đổi và chia sẻ cuối chương trình
Diễn giả chụp ảnh lưu niệm cùng giảng viên và sinh
viên trong Khoa Kiến trúc và Quy hoạch
Với
những ví dụ thực tế cụ thể và có tính chọn lọc cao, các khái niệm tưởng chừng rất
hàn lâm về không gian đô thị, đô thị vị nhân sinh lại được diễn giải một cách sống
động và dễ hiểu, nhất là đối với sinh viên. Bài thuyết trình của TS. KTS. Tô
Kiên thật sự đã truyền cảm hứng cho cả các giảng viên tham dự. Khoa Kiến trúc
và Quy hoạch cũng đã có lời mời TS. KTS. Tô Kiên trong những lần về Việt Nam
công tác sau này sẽ lại có những bài giảng với những chủ đề mới cho sinh viên
trong Khoa, và TS. KTS. Tô Kiên đã vui vẻ nhận lời.
Bài: TS. KTS.
Nguyễn Quang Minh
Hình thông báo hoạt động: ThS. KTS. Phan Tiến Hậu
Ảnh: Câu lạc bộ
Sinh viên Quy hoạch – Đại học Xây dựng