Có thể nói đồ án là môn học quan trọng hàng đầu đối với sinh viên (SV) ngành kỹ thuật nói chung và SV kiến trúc nói riêng. Mỗi đồ án là một dịp để SV củng cố kiến thức đã tích lũy, rèn luyện thêm tư duy sáng tạo, học hỏi những điều hay cũng như phát triển các kỹ năng mới qua một trường hợp cụ thể, giúp SV tiếp cận công việc thực tế của một KTS trong tương lai. Còn đối với một số SV năng động đang thực tập và học việc trong các xưởng thiết kế hoặc văn phòng tư vấn thì có thể áp dụng ngay cho những dự án bên ngoài xã hội.

Kiến trúc Dân dụng là bộ môn phụ trách nhiều đồ án môn học thiết kế công trình của Khoa Kiến trúc và Quy hoạch thuộc Đại học Xây dựng. Năm 2016, Bộ môn đã tiến hành nghiên cứu đổi mới hệ thống đồ án, nâng cao chất lượng đồ án bằng cách tăng thời gian thể hiện, đưa thêm khối lượng – ngoài nội dung quy hoạch và kiến trúc còn có thêm phần kỹ thuật công trình – để tiếp cận với xu thế đào tạo kiến trúc chung của khu vực và thế giới (xem Tạp chí Kiến trúc số 259 phát hành tháng 11/2016). Tuy nhiên, hiện thực hóa đề xuất này cần có một lộ trình chuyển đổi, có thể kéo dài vài ba năm. Trong thời gian đó, khung chương trình cũ với hai đồ án môn học mỗi học kỳ, nghĩa là mỗi đồ án SV chỉ có bảy tuần để nhận nhiệm vụ, tìm ý và hoàn chỉnh phương án kiến trúc, vẫn tiếp tục được áp dụng. Thực tế cho thấy, bảy tuần là khoảng thời gian vừa đủ để một SV với học lực giỏi có thể hoàn thành một đồ án có chất lượng, còn với các SV khác thời gian này là ngắn. Tỷ lệ SV đạt điểm trung bình và dưới trung bình tương đối cao vì nhiều nguyên nhân, cả chủ quan lẫn khách quan. Vậy có giải pháp nào để cải thiện tình hình trong một khuôn khổ khá hạn hẹp về mặt thời gian của một đồ án kiến trúc dân dụng? Bài viết này có thể được coi là một ý kiến trao đổi, giúp SV đạt kết quả khả quan hơn và quan trọng hơn là xây dựng được một phương pháp làm việc thích hợp. Từ “sợ” đồ án, SV sẽ chuyển sang “thích” và dần dần “đam mê” đồ án môn học, tạo đà để thực hiện tốt các dự án thực tế sau khi tốt nghiệp.

Câu chuyện bảy tuần …

Bộ môn Kiến trúc Dân dụng thuộc Khoa Kiến trúc và Quy hoạch tại Đại học Xây dựng phụ trách sáu trong số tám đồ án kiến trúc công trình từ DD3 đến DD8. Ngoại trừ đồ án DD8 do tính phức hợp về công năng cũng như độ khó về kỹ thuật của công trình cao hơn nên được bố trí thêm một tuần so với thời gian định mức. Trong thời gian bảy tuần này, SV gặp giáo viên để thông qua đồ án một buổi kéo dài năm tiết (tương đương khoảng bốn tiếng đồng hồ). Một lớp học đồ án với khoảng 60 SV sẽ do ba giảng viên (GV) phụ trách. Như vậy, một GV sẽ hướng dẫn trên dưới 20 SV, nếu tính cả số SV khóa trước học lại được ghép vào lớp thì tỷ lệ SV/GV có thể lên tới 25/1 . Ba tuần đầu tiên, khi giảng những vấn đề chung cho cả lớp hoặc một nhóm, quỹ thời gian bốn tiếng này có thể đủ. Nhưng bắt đầu từ tuần thứ tư trở đi, khi SV đã đi theo các hướng khác nhau và có ý đồ riêng, thời gian chữa bài cho 25 SV sẽ tăng khoảng gấp đôi. Một buổi bốn tiếng như vậy chỉ có thể sửa bài tương đối cụ thể và cẩn thận cho 12 – 13 SV (tạm gọi là nhóm 1). Do vậy, GV phải bố trí thêm một buổi trong tuần để hướng dẫn số SV còn lại (tạm gọi là nhóm 2). Điều này không phải lúc nào cũng thực hiện được dễ dàng vì thực tế khung giờ trống của GV và SV nhóm 2 hay bị lệch nhau. Trong trường hợp đó, một số GV buộc phải yêu cầu SV gửi bài qua thư điện tử, xem và góp ý chi tiết thẳng vào bài rồi gửi lại. Đây quả thực là sự lựa chọn bất đắc dĩ vì hiệu quả của hình thức làm việc kiểu “từ xa” này sẽ không thể hiệu quả bằng gặp và trao đổi trực tiếp bài vở trên lớp. Như vậy sẽ là “thiệt thòi” cho SV nhóm 2. Còn nếu dồn toàn bộ hai nhóm với 25 SV để thông đồ án trong một buổi để đảm bảo yếu tố trực tiếp và công bằng thì sẽ quá tải đối với GV. Với thời gian chia ra chỉ 10 phút/SV sẽ khó có thể sửa bài được kỹ lưỡng.

Như vậy, có thể thấy lịch làm việc bảy tuần khá “khít”. Chỉ cần SV trễ một nhịp, bất kể vì lý do gì, cũng sẽ khiến công việc tự động dồn lại và những tuần sau đó trở nên căng thẳng và vất vả. Ngoại trừ một số ít cá nhân xuất sắc, đa số các SV còn lại đều cảm thấy đồ án quá sức với mình. Theo kết quả khảo sát tiến hành năm 2016 với sự tham gia của 203 SV thuộc sáu lớp cho đồ án DD3 (đồ án đầu tiên) và 148 SV thuộc năm lớp khác cho đồ án DD7 (đồ án gần cuối cùng mà Bộ môn phụ trách), tỷ lệ SV cảm thấy áp lực về thời gian (thời gian làm đồ án bảy tuần là khá ít) lần lượt là 52,2% và 80,4%, và số SV có nguyện vọng tăng thêm gấp rưỡi hoặc gấp đôi thời gian làm đồ án (để có được sự nghiên cứu sâu hơn về giải pháp kiến trúc và các vấn đề kỹ thuật công trình) ở mức cao, lần lượt là 69,7% và 99,0% (Nguồn: Bộ môn Kiến trúc Dân dụng, 2016, Đề tài nghiên cứu khoa học “Đổi mới hệ thống đồ án môn học”).

Thời gian biểu làm việc đồ án trên lớp được thống nhất giữa GV và SV (Nguồn: Nguyễn Quang Minh, 2017)

Hai trong số nhiều lý do mà GV nhận thấy trong thực tế hướng dẫn đồ án khiến đa số SV thường xuyên bị chậm tiến độ so với kế hoạch đề ra ban đầu là:

  • Làm việc không đúng phương pháp, nên tốn khá nhiều thời gian – nhiều gấp đôi đến gấp ba mức cần thiết – mới tìm được một phương án có thể chấp nhận được;
  • Chưa tận dụng được nguồn tài liệu tham khảo mà bản thân SV có thể tự chủ động tìm kiếm, kể cả khi được GV chỉ rõ tận nguồn hoặc trực tiếp cung cấp.

Đó cũng là hai vấn đề trọng tâm của bài viết mà tác giả sẽ phân tích cụ thể. Từ việc chậm tiến độ, chất lượng đồ án sẽ bị ảnh hưởng. Trong một số trường hợp, có thể là do quá “bí bách”, xuất hiện tình trạng SV sao chép bài, vi phạm nội quy học tập.

Điều đáng bàn ở đây là các đồ án tuy khác nhau về quy mô, tính chất và thể loại, phương pháp luận về cơ bản lại khá giống nhau. Chỉ cần được giảng cặn kẽ một hoặc hai lần là SV học lực trung bình khá trở lên có thể tiếp thu và vận dụng cho những đồ án sau. Tuy nhiên, hiện tượng phổ biến là còn lúng túng về phương pháp trong đồ án ngay sau vẫn xảy ra tương đối phổ biến, do SV thiếu tính linh hoạt khi vận dụng.

Làm thế nào để làm một đồ án đúng phương pháp trong những bước đi đầu tiên?

Phương pháp luận đóng vai trò hết sức quan trọng trong nghiên cứu khoa học. Sự thành công hay thất bại của một đề tài nghiên cứu phụ thuộc phần lớn vào sự đúng đắn hoặc phù hợp của phương pháp tiến hành. Tương tự như vậy, khi làm một đồ án kiến trúc công trình, nếu SV nắm vững phương pháp sẽ tiết kiệm được công sức và nhất là thời gian. Thay vì mất bốn đến năm tiếng đồng hồ để tìm ra giải pháp, SV chỉ cần chưa đến 90 phút. Còn nếu xét trong cùng một khoảng thời gian, khối lượng công việc thực hiện được sẽ nhiều hơn.

Để có thể tìm được một ý tưởng tốt, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân (được thể hiện ở tinh thần làm việc chủ động và tích cực) và sự hướng dẫn của GV, SV cần:

  • Hiểu rõ nhiệm vụ thiết kế với tất cả thông tin quan trọng được cung cấp;
  • Biết cách phân tích khu đất để nắm vững các điểm mạnh và điểm yếu của khu đất;
  • Thuộc lòng dây chuyền công năng chuẩn của công trình;
  • Vận dụng một số thủ thuật chuyển hóa dây chuyền công năng thành mặt bằng.

Từ nhiệm vụ thiết kế được cung cấp, SV sẽ lọc những thông tin quan trọng nhất về quy hoạch tổng mặt bằng và về kiến trúc. Ngoài ra, còn có một số dữ liệu khác, có thể nhiệm vụ thiết kế không nêu song vẫn phải được liệt kê cho đầy đủ và khai thác từ các quy chuẩn – tiêu chuẩn thiết kế hiện hành của Việt Nam, có tham khảo các tiêu chuẩn nước ngoài (nếu cần thiết). Cuốn “Neufert – Dữ liệu Thiết kế của KTS” luôn là một cuốn cẩm nang hữu ích. Từ các thông tin và dữ kiện đó, SV cần trình bày vào trong một bảng biểu, (cố gắng gọn trong một mặt của tờ giấy khổ A4 cho công trình quy mô nhỏ đến trung bình hoặc khổ A3 cho công trình quy mô lớn) để tiện theo dõi trong quá trình thiết kế. Bảng biểu này còn được sử dụng về sau như một danh mục kiểm tra khi bản thiết kế mặt bằng hoàn tất. SV sẽ đối chiếu các phòng chức năng từ bản vẽ lên danh mục này và đánh dấu tích bên cạnh từng dòng của phòng chức năng để chắc chắn rằng bản thiết kế đáp ứng đầy đủ những yêu cầu mà đề tài đặt ra về thể loại, số lượng và diện tích.

Mỗi khu đất cụ thể được cho trước sẽ có những điểm mạnh và điểm yếu nhất định. SV cần có cách nhìn toàn diện và chính xác, hiểu rõ những lợi thế và hạn chế của khu đất để có phương án phát huy và khắc phục tương ứng, và quan trọng hơn là đặt các hạng mục chức năng vào đúng vị trí cần thiết. SV nên đặt hệ trục tọa độ xOy vào khu đất với trục Oy chỉ đúng hướng bắc và gốc tọa độ O đặt ở điểm trung tâm của khu đất. Từ điểm trung tâm này, kẻ các đoạn thẳng nối với các đỉnh của khu đất, như vậy, một khu đất hình đa giác có thể được chia thành nhiều miếng tam giác. Nhiệm vụ của SV là đánh giá giá trị của từng miếng hình tam giác này lần lượt trên các khía cạnh:

  • Giao thông – tiếp cận (cho người đi bộ và cho người đi xe);
  • Điểm nhìn – cảnh quan (từ bên trong nhìn ra và từ bên ngoài nhìn vào);
  • Hướng nắng;
  • Hướng gió;
  • Các yếu tố tác động khác (tiếng ồn, nguồn gây ô nhiễm, …)

Cho đến nay, đa số SV vẫn đánh giá khu đất theo kiểu diễn họa đơn giản và tách rời từng yếu tố một, không tổng hợp lại nên thiếu tính bao quát, do đó chưa nhìn nhận hết các yếu tố thuận lợi hoặc khó khăn của toàn khu đất. Điều này có thể liên tưởng đến điển tích “thầy bói xem voi”, mỗi thầy bói cảm nhận một bộ phận riêng rẽ của con voi rồi phát biểu phiến diện. Việc phân tích và đánh giá không đầy đủ nên xảy ra tình trạng đặt hạng mục chức năng không đúng vị trí, giải pháp tổng mặt bằng không đạt yêu cầu, dẫn đến khâu kế tiếp là thiết kế mặt bằng công trình cũng thiếu hợp lý.

Trở lại vấn đề phân tích và đánh giá, căn cứ vào các yếu tố cụ thể được hiển thị trên và xung quanh khu đất (đường phố và các luồng giao thông, sơ đồ quỹ đạo mặt trời trong ngày, hướng gió chủ đạo theo mùa, diện tích cây xanh, mặt nước, các hoạt động hàng ngày diễn ra, …) SV sẽ xác định từng yếu tố tác động lên từng miếng hình tam giác đã chia từ khu đất ban đầu là tốt/có lợi (ký hiệu dấu +), bình thường (ký hiệu dấu o) hoặc không tốt/bất lợi (ký hiệu dấu –). Các ký hiệu này sẽ được thể hiện bằng năm màu khác nhau tương ứng với năm yếu tố tác động kể trên để dễ dàng phân biệt và nên ký hiệu to/nhỏ theo mức độ thuận lợi/không thuận lợi nhiều hoặc ít cho trực quan. Căn cứ vào mức độ tập trung các ký hiệu +, o và – và kích cỡ của các ký hiệu đó, SV có thể nhận định đâu là khu vực ưu tiên số 1 (thuận lợi nhất), số 2 (thuận lợi nhì), … để từ đó bố trí các khối chức năng cho phù hợp. Trong trường hợp hai miếng đất tam giác có số lượng dấu + bằng nhau thì xét đến yếu tố quan trọng hơn (là giao thông hoặc điểm nhìn, hướng nắng, hoặc hướng gió tùy từng trường hợp) nhằm mục đích phân định thứ bậc cho chính xác. Thông thường, nếu không có gì đặc biệt, hạng mục chức năng chính sẽ bố trí ở khu vực ưu tiên 1 và 2, các hạng mục chức năng phụ sẽ đặt ở khu vực còn lại.

Về dây chuyền công năng, SV tiếp thu từ môn học lý thuyết bổ trợ là Nguyên lý Thiết kế Kiến trúc Nhà ở hoặc Nguyên lý Thiết kế Kiến trúc Công cộng đã được giảng dạy trước đó, chỉ cần 10 – 15 phút xem lại. Trừ những trường hợp công năng phức tạp cần đến sự giúp đỡ của GV hoặc tham khảo tài liệu, SV hoàn toàn có thể tự suy luận rồi thiết lập nên dây chuyền công năng của công trình căn cứ trên logic của hành động.

Chuyển hóa sơ đồ dây chuyền công năng thành mặt bằng là vấn đề mà nhiều SV vướng mắc, đặc biệt là các đồ án mang tính phức hợp cao với nhiều hạng mục chức năng đan xen hoặc song song với nhau như đồ án DD6 (nhà văn hóa – câu lạc bộ), DD7 (nhà thi đấu thể thao – bể bơi), DD8 (khách sạn – bệnh viện – công trình cao tầng đa chức năng). Ma trận chức năng là công cụ hỗ trợ đắc lực, giúp SV xác định mối liên hệ giữa hai phòng chức năng A và B (là trực tiếp hay gián tiếp hay không có liên hệ) để kiểm tra tính hợp lý của giải pháp thiết kế mặt bằng công trình. Tuy nhiên, ma trận này tỏ ra không thật sự hiệu quả trong trường hợp các không gian chức năng có những mối liên hệ bộ ba, thậm chí bộ bốn mà ma trận chức năng chỉ xét quan hệ theo từng cặp, khó thể hiện được rõ.

Phương pháp đánh giá và phân tích khu đất (Nguồn: Nguyễn Quang Minh, 2017)

Dây chuyền chức năng thực chất chỉ là sơ đồ dạng nguyên lý. Với từng khu đất cụ thể, sơ đồ này phải có sự biến đổi nhất định sao cho phù hợp, chẳng hạn như sơ đồ tuyến dài gặp trường hợp khu đất gần vuông phải tiến hành bẻ góc thành hai hoặc ba đoạn – thành hình chữ L hoặc hình chữ U. Ngược lại, sơ đồ nguyên lý chuỗi vòng đặt vào khu đất chạy dài sẽ phải “duỗi thẳng”. Sơ đồ “vuông thành sắc cạnh” vận dụng vào khu đất có hình dáng tự do nên để “lỏng” hoặc “chùng” một vài đoạn cho phù hợp với những cạnh cong hoặc gấp khúc theo yêu cầu của thiết kế đô thị. Hơn nữa, yếu tố diện tích hoặc khối tích của khu chức năng nhiều khi không được thể hiện trên sơ đồ công năng với những hình vuông/hình chữ nhật mang tính tượng trưng. Có những SV đã thiết lập được sơ đồ công năng chuẩn, nhưng khi xét đến thông số diện tích hoặc khối tích (đảm bảo diện tích/khối tích này đúng yêu cầu thiết kế) sẽ phải phóng to một khối nào đó lên, khiến sơ đồ ban đầu bị lệch tương đối nhiều và ý đồ tạo hình sẽ khác, khó kiểm soát. Không ít SV quan niệm đường bo vạch ra ban đầu là một chiếc khuôn cứng, và cố gắng dồn các chức năng vào trong khuôn đó cho vừa đến mức “đông đặc”, hoặc ngược lại nếu vẫn còn thừa không gian thì cấy thêm chức năng khác hoặc đẩy số lượng phòng chức năng ban đầu lên theo tư duy “lấp đầy chỗ trống”. Để khắc phục điều này, SV nên coi chiếc khuôn vạch ra ban đầu đó là “khuôn dẻo”, có thể co giãn được. Điều quan trọng là đã xác định được vị trí tối ưu của từng khối chức năng trong một mạng lưới tổng thể. Chính sự “co giãn” đó, xét trên phương diện tạo hình lại là phép lợi thế trên nền một công năng đã “đạt chuẩn”. Một vấn đề nữa mà SV hay đặt câu hỏi là: Làm cách nào để vẫn tạo ra hình thức như mong muốn khi đua một khối nào đó của công trình ra nhiều hơn, nhằm tăng hiệu quả thị giác mà không vượt quá ngưỡng chênh lệch cho phép +-10% về diện tích sàn đã cho? Câu trả lời không quá khó: Xen cấy các khoảng thông tầng, sân trong hay giếng trời, vừa lấy thêm đươc ánh sáng tự nhiên, thông gió tốt hơn, đưa thiên nhiên vào gần hơn và không gian linh hoạt cũng như hấp dẫn hơn.

Như đã đề cập ở trên, từ sơ đồ công năng đến mặt bằng còn phải qua một bước là kích thước hóa các không gian chức năng thành phần. Một thủ thuật mà không nhiều SV vận dụng là cắt bìa rời theo kích thước, tô màu, ghi tên và xếp hình để tìm cấu trúc cũng như hình dạng cơ bản của mặt bằng. Nếu vẫn chưa hợp lý thì gạt đi xếp lại theo cách khác, luôn lấy một không gian làm chuẩn để từ đó định vị dần dần các phòng còn lại, căn cứ trên mối tương quan về chức năng hoặc giao thông (hoặc cả hai) giữa các bộ phận. Về nguyên tắc, mỗi bộ phận có một vị trí tối ưu xác định, không ở trên thì ở dưới, không ở bên trái thì ở bên phải, không ở phía trước thì ở phía sau, không ở phía trong thì ở phía ngoài,… SV sắp xếp một hồi, thử lần lượt các khả năng thế nào cũng tìm ra phương án tối ưu. Thay vì phải vẽ đi vẽ lại chục lần, gạch xóa, tẩy phủ, … mất rất nhiều thời gian, cách cắt bìa xếp hình này dễ, nhanh và hiệu quả cao hơn nhiều. Khi mặt bằng tầng dưới đã chuẩn, có thể cố định các miếng bìa màu ghi tên phòng chức năng đã được đảm bảo diện tích theo kích thước lên tờ giấy bằng băng dính hai mặt, tốt nhất là đặt trở lại vào trong khu đất theo đúng tỷ lệ để dễ kiểm soát các khoảng đua ra – lùi vào, đảm bảo khoảng đua ra không quá chỉ giới xây dựng, không ảnh hưởng đến lối tiếp cận và lưu thông xe cứu thương cũng như xe cứu hỏa, từ đó chỉ việc đặt giấy can lên rồi vẽ mặt bằng tầng trên, thay vì giấy trắng hoặc giấy kẻ ô không trong suốt khó nhìn – phải lật đi lật lại nhiều lần để xem và đối chiếu. Qua lớp giấy can, cỏ thể nhìn rõ không gian bên dưới có chức năng gì, với các điểm chốt cố định là những vị trí thang, khu vệ sinh và khoảng thông tầng luôn thẳng hàng từ trên xuống dưới. Các vị trí khác cần xét mối liên hệ theo chiều dọc (nếu có) của không gian bên dưới và không gian bên trên, chẳng hạn như trong đồ án DD3 (biệt thự), mối liên hệ theo chiều đứng phòng khách (tầng 1) – phòng sinh hoạt chung (tầng 2) – phòng thờ (tầng 3) được xác định ngay từ đầu và giúp nhanh chóng định vị các không gian khác của từng tầng phía trên.

Cảm hứng là một yếu tố không kém phần quan trọng, giúp SV tìm ý nhanh hơn và chất lượng hơn. Khi đã mệt mỏi hoặc tinh thần bị ức chế, tốt nhất là nên nghỉ ngơi. Cảm hứng lại liên quan đến thời gian. Có SV cho biết thời điểm tốt nhất để tư duy đồ án là sáng sớm. Đối với SV khác đó lại là lúc tối muộn – sau 22h – đủ yên tĩnh để tập trung, sau khi chợp mắt khoảng một tiếng để tinh thần sảng khoái trở lại. Như vậy, mỗi SV có thể có một thời điểm thích hợp khác nhau. Những yếu tố góp phần làm gia tăng cảm hứng như âm nhạc hoặc đồ uống, nếu thực sự có tác dụng, cũng nên được kết hợp.

SV đã thực sự khai thác được nguồn tài liệu tham khảo có giá trị?

Câu trả lời nhìn chung là chưa. Tài liệu tham khảo tốt là một công cụ hỗ trợ cho SV khi thực hiện bất kỳ một đồ án kiến trúc công trình nào trong suốt quá trình học tập tại trường. Nhiều SV chưa thực sự tự giác. Nguồn tài liệu tham khảo ở đây không nhất thiết phải là những cuốn sách dạng tuyển tập giới thiệu công trình của các KTS nổi tiếng (có giá lên tới vài triệu đồng được bày bán trong các hiệu sách ngoại văn, vượt quá khả năng chi trả của đa số SV), mà thực sự rất dễ tìm, không tốn chi phí và lại vô cùng phong phú, rất nhiều trong số đó có chất lượng thiết kế tốt, rất đáng để tham khảo. Có hai cách học mà SV nếu thực hiện được với tinh thần cầu tiến thì sẽ rất hữu ích cho bản thân:

– Tham quan các công trình thực tế đã được xây dựng, quan sát thật kỹ các không gian, một số thủ pháp thiết kế mặt bằng cũng như tạo hình mà KTS đã sử dụng, đi đôi với việc tìm kiếm các bản vẽ tương ứng từ nhiều nguồn khác nhau. Nếu vì một lý do nào đó không tiếp cận được các bản vẽ này, SV có thể vẽ ghi lại. SV cần tự chủ động lập nhóm để đi tham quan công trình thực tế, có hoặc không có GV đi cùng. Bộ môn cũng như Khoa sẵn sàng viết giấy giới thiệu cho SV, và GV bằng mối quan hệ cá nhân của mình có thể liên lạc với Ban Quản lý để họ tạo điều kiện cho SV tiếp cận. Các chuyến tham quan xuyên Việt hoặc chương trình học hè (summer school) mà Khoa Kiến trúc và Quy hoạch đang duy trì với một số đối tác cũng là cơ hội tốt cho SV học hỏi từ thực tế;

– Các nguồn học liệu mở. Các trang web nổi tiếng về kiến trúc như www.archdaily.com hay wwww.worldarchitecture.net là những địa chỉ mà SV nên truy cập thường xuyên để xem các công trình mới liên tục được giới thiệu. Kienviet.net cũng là một kênh tham khảo mà SV nên lựa chọn. Bên cạnh đó, các KTS nổi tiếng trên thế giới như Tadao Ando, Ken Yeang, Christian de Portzamparc, Santiago Calatrava, Norman Foster, Renzo Piano, Daniel Libeskind, Glenn Murcutt,… đều có công ty tư vấn kiến trúc riêng. Trong nước, nhiều SV cũng đã biết đến các văn phòng thiết kế có uy tín như 1+1>2, TT-As, H&P Architects,… Các công ty kiến trúc và văn phòng thiết kế nói trên đều xây dựng và vận hành các trang web để giới thiệu và giao dịch, bao giờ cũng có mục DỰ ÁN (PROJECTS) được cập nhật thường xuyên và sắp xếp theo theo thể loại công trình, hoặc theo năm, hoặc theo quốc gia – khu vực, … SV hoàn toàn có thể truy cập các trang web này, tải về và lưu trữ các công trình tiêu biểu để nghiên cứu – Chỉ có một số ít trường hợp vì lý do bản quyền, việc tải về không thực hiện được nhưng vẫn có thể in ra hoặc chụp ảnh lại để tìm hiểu kỹ hơn. Những dự án đã được giới thiệu và xây dựng đều là các bản thiết kế đã được thẩm định kỹ trước khi nhận giấy phép xây dựng nên đều có tính hợp lý và khả thi. Mỗi SV đều có thể tự tìm kiếm và lưu trữ thành một bộ sưu tập riêng để phục vụ cho mục đích học tập, tự nghiên cứu. Ngoài ra, SV còn có thể trao đổi chéo tài liệu thiết kế và hỏi GV nếu có bất cứ điểm gì chưa hiểu rõ để được giải đáp. Điều quan trọng là SV tự nghiên cứu, phân loại, so sánh các công trình cùng thể loại với nhau, tự lý giải, cảm thụ và cuối cũng rút ra những bài học cần thiết để vận dụng vào đồ án – Bởi vì, xét cho cùng, việc làm đồ án trong trường đại học là quá trình SV tự tìm tòi và học hỏi. Việc học hỏi từ thực tế vốn rất đa dạng và sinh động luôn là cách học đồ án tốt, đem lại hiệu quả cao.

Kết luận

Bảy tuần làm một đồ án kiến trúc công trình công cộng theo chương trình đào tạo hiện nay tại Đại học Xây dựng là một thời gian tương đối ngắn và yêu cầu khá cao, tạo nên một áp lực học tập không hề nhỏ cho SV, song đó cũng là những thử thách mà mỗi SV cần phải vượt qua để sau này có thể đứng vững trong môi trường lao động có tính cạnh tranh thời kỳ hội nhập và toàn cầu hóa. SV hoàn toàn có thể đạt kết quả tốt môn đồ án nếu hội tụ đầy đủ các điều kiện như đề bài hay và thiết thực, môi trường học tập khơi dậy đam mê sáng tạo, GV hướng dẫn có trình độ và tâm huyết, tài liệu tham khảo sẵn có, … Tuy nhiên, bản thân SV – đối tượng trung tâm của quá trình đào tạo – phải nỗ lực phấn đấu là chính, trong đó phương pháp tư duy thật sự khoa học đóng vai trò quyết định. Bài viết này như một gợi ý nhỏ giúp SV nhanh chóng vượt qua được những khó khăn có thể gặp phải trong hai hoặc ba tuần đầu tiên và tập trung vào quãng thời gian còn lại để có được một đồ án thật sự chất lượng.


TS. KTS Nguyễn Quang Minh